Friday, June 1, 2012


 Phân tích bài thơ " nói với con' của Y Phương

đây là đoạn tam sự của nhà thơ y phương
Chắc chắn giúp ta hiểu thêm nhiều về bài thơ nói với con
Đến gặp nhà thơ Y Phương, tác giả của bài thơ “Nói với con” (SGK lớp 9) tại nhà riêng của ông, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên với nhà thơ người dân tộc Tày này. Cánh cửa nhà mở toang, vọng ra tiếng ông đang ngâm một bài thơ tiếng Tày đầy sảng khoái. Khi chúng tôi tới, ông vừa gò lưng lau nhà vừa hát thơ. Ngẩng đầu lên, ông tươi cười, thay cho lời chào đáp lại ông nói:“nghề chính của tôi là tạp vụ, có nghề phụ làm thơ.” 

* Đó là lúctôi dường như không biết lấy gì để vịn!

Sốngtrên đá không chê đá gập ghềnh 
Sống trong thung không chê thung nghèo đói 
Sống như sông như suối 
Lên thác xuống ghềnh 
Không lo cực nhọc” 

Vợ chồng chúng tôi sinh cô con gái đầu lòng vào giữa năm 1979. Bài thơ “Nói với con” tôi viết năm 1980. Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn. Thời kỳ cả nước mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ lâu dài và gian khổ. Giống như một người mới ốm dậy, xã hội khi ấy bắt đầu xuất hiện người tốt, kẻ xấu để tranh giành sự sống. Thực ra, theo tôi không có con người xấu, mà chỉ có những tính xấu như trộm cắp, tham nhũng, lừa đảo, sự dối trá…Ta phải biến những cái xấu ấy thành “phân”, để “bón” cho cây cối và làm giàu cho đất cát.
Bài thơ với nhan đề là “Nói với con”, đó là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lý do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa. 

Chân phải bước tới cha 
Chân trái bước tới mẹ 
Một bước chạm tiếng nói 
Hai bước tới tiếng cười 
Người đồng mình yêu lắm con ơi 
Đan lờ cài nan hoa 
Vách nhà ken câu hát 
Rừng cho hoa 
Con đường cho những tấm lòng 
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới 
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời. 

Người đồng mình thương lắm con ơi 
Cao đo nỗi buồn 
Xa nuôi chí lớn 
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn 
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh 
Sống trong thung không chê thung nghèo đói 
Sống như sông như suối 
Lên thác xuống ghềnh 
Không lo cực nhọc 
Người đồng mình thô sơ da thịt 
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con 
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương 
Còn quê hương thì làm phong tục 
Con ơi tuy thô sơ da thịt 
Lên đường 
Không bao giờ nhỏ bé được 
Nghe con.

"Tôi là người dân tộc Tày. Chúng tôi sinh hoạt như những người Tày ngay giữa lòng Thủ đô..."

Bài thơ 28 câu này được xem như là viết riêng cho đứa con đầu lòng. Ở phạm vi hẹp, bài thơ chủ yếu đề cập đến văn hóa dân tộc, nhằm tôn vinh nét đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc Tày. 
Tôi rất bất ngờ khi biết “Nói với con” được đưa vào SGK. Tuy nhiên tôi không biết đích xác đưa vào năm nào. Quan trọng là tác phẩm của tôi đã được đông đảo các em học sinh đón nhận. Với những tác phẩm trong SGK, việc cải cách liên tục như hiện nay thì một tác phẩm nay “để”, mai “bóc” chuyện bình thường. Vì thế phần thưởng lớn nhất dành cho tôi là được mọi người biết đến, nhớ đến tác phẩm của mình.

* Nhiều giáo viên và học sinh đã đến nhà nhờ giảng về bài thơ 

Bài thơ “Nói với con”, dù thấy chẳng có gì đặc biệt hay, nhưng cũng khiến nhiều người băn khoăn . Chẳng hạn trong bài thơ có hai câu:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”

Đấy là hai câu chốt của bài thơ “Nói với con”. Thế nhưng, nhiều giáo viên dường như chưa hiểu hàm ý của hai câu thơ. Nên khi giảng bài, họ chỉ dựa vào hướng dẫn trong SGK là chính. Thực ra, theo tác giả, ý nghĩa của bài thơ khác hơn nhiều. Nó cao và sâu hơn câu chuyện về tình phụ tử. Chúng ta đừng viện cớ thiếu thốn khó khăn mà đánh mất đạo đức, văn hóa. Tôi thấy, dường như giờ đây, nhiều con em các dân tộc không mấy mặn mà với văn hóa truyền thống. Và họ đang tự nguyện nhập ngoại, lai căng một cách dễ dãi. Tôi ủng hộ hòa nhập nhưng không thể hòa tan. Văn hóa dân tộc là tài sản lớn. Giữ cho mình và giữ cho con cháu mình. Tôi là người dân tộc Tày. Chúng tôi sinh hoạt như những người Tày ngay giữa lòng Thủ đô. Không phải do tôi sợ đánh mất bản bản sắc riêng mà là niềm tự hào chính đáng về văn hóa dân tộc của mình. Tôi tự hào vì tôi là người Tày.


Nhà thơ Y Phương 
Có lần, một cậu bé ở tận trong Huế lặn lội ra Hà Nội, tìm đến nhà và hỏi chuyện tôi về bài thơ. Hình như cậu bé chuẩn bị thi vào trường quốc học Huế. Đúng vậy. Cậu học trò ấy đã chọn bài thơ “Nói với con” để làm bài thi môn văn. Và cậu ấy đã đỗ thủ khoa. Một số giáo viên ở trường chuyên ở các tỉnh, cũng đích thân tới tận nhà gặp và hỏi trực tiếp tôi về bài thơ “Nói với con”.
Bài thơ mà mọi người hay băn khoăn thắc mắc nhất là hai câu: “Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ” nghĩa là sao? Tôi bật cười, cái đó thì quá đơn giản. Có gì đâu, đứa con sinh ra thì phải có cha có mẹ. Đó là khởi điểm của một con người. Một điều nữa “vách nhà ken câu hát” làyếu tố văn hóa phi vật thể. Người con trai ngồi ngoài vách. Người con gái ở bên trong vách. Họ hát cho nhau nghe. Hát tràn đêm đến sáng bạch. Bởi thế, bức vách ở đây không chỉ là một bức vách cụ thể bằng đất bằng đá nữa. Nó đã trở thành một chủ thể văn hóa. Văn hóa ăn nhau ở sự khác biệt chứ không nói sự hơn kém. 

Câu chuyện với nhà thơ người Tày Y Phương tưởng như không thể dứt ra được. Từ chuyện ông ước mơ đi học các phép thuật để làm thầy tào; chuyện ông đi “buôn lậu” đến những quan niệm của ông về làm thơ. Mời các bạn đón đọc kỳ sau.
*********************
Chắc chắn giúp ta hiểu thêm nhiều về bài thơ nói với con
Đến gặp nhà thơ Y Phương, tác giả của bài thơ “Nói với con” (SGK lớp 9) tại nhà riêng của ông, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên với nhà thơ người dân tộc Tày này. Cánh cửa nhà mở toang, vọng ra tiếng ông đang ngâm một bài thơ tiếng Tày đầy sảng khoái. Khi chúng tôi tới, ông vừa gò lưng lau nhà vừa hát thơ. Ngẩng đầu lên, ông tươi cười, thay cho lời chào đáp lại ông nói:“nghề chính của tôi là tạp vụ, có nghề phụ làm thơ.” 

* Đó là lúctôi dường như không biết lấy gì để vịn!

Sốngtrên đá không chê đá gập ghềnh 
Sống trong thung không chê thung nghèo đói 
Sống như sông như suối 
Lên thác xuống ghềnh 
Không lo cực nhọc” 

Vợ chồng chúng tôi sinh cô con gái đầu lòng vào giữa năm 1979. Bài thơ “Nói với con” tôi viết năm 1980. Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn. Thời kỳ cả nước mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ lâu dài và gian khổ. Giống như một người mới ốm dậy, xã hội khi ấy bắt đầu xuất hiện người tốt, kẻ xấu để tranh giành sự sống. Thực ra, theo tôi không có con người xấu, mà chỉ có những tính xấu như trộm cắp, tham nhũng, lừa đảo, sự dối trá…Ta phải biến những cái xấu ấy thành “phân”, để “bón” cho cây cối và làm giàu cho đất cát.
Bài thơ với nhan đề là “Nói với con”, đó là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lý do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa. 

Chân phải bước tới cha 
Chân trái bước tới mẹ 
Một bước chạm tiếng nói 
Hai bước tới tiếng cười 
Người đồng mình yêu lắm con ơi 
Đan lờ cài nan hoa 
Vách nhà ken câu hát 
Rừng cho hoa 
Con đường cho những tấm lòng 
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới 
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời. 

Người đồng mình thương lắm con ơi 
Cao đo nỗi buồn 
Xa nuôi chí lớn 
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn 
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh 
Sống trong thung không chê thung nghèo đói 
Sống như sông như suối 
Lên thác xuống ghềnh 
Không lo cực nhọc 
Người đồng mình thô sơ da thịt 
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con 
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương 
Còn quê hương thì làm phong tục 
Con ơi tuy thô sơ da thịt 
Lên đường 
Không bao giờ nhỏ bé được 
Nghe con.

"Tôi là người dân tộc Tày. Chúng tôi sinh hoạt như những người Tày ngay giữa lòng Thủ đô..."

Bài thơ 28 câu này được xem như là viết riêng cho đứa con đầu lòng. Ở phạm vi hẹp, bài thơ chủ yếu đề cập đến văn hóa dân tộc, nhằm tôn vinh nét đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc Tày. 
Tôi rất bất ngờ khi biết “Nói với con” được đưa vào SGK. Tuy nhiên tôi không biết đích xác đưa vào năm nào. Quan trọng là tác phẩm của tôi đã được đông đảo các em học sinh đón nhận. Với những tác phẩm trong SGK, việc cải cách liên tục như hiện nay thì một tác phẩm nay “để”, mai “bóc” chuyện bình thường. Vì thế phần thưởng lớn nhất dành cho tôi là được mọi người biết đến, nhớ đến tác phẩm của mình.


///

Xưa nay tình mẫu tử là đề tài phong phú cho thơ ca. Nhưng những bài thơ về tình cha con thì có lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với con" cuả Y Phương là 1 trong những tác phẩm hiếm hoi đó. Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha thiết, ngọt ngào và ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi.
       Cảm nhận đầu tiêntrong lời cha nói là hình ảnh con lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc, che chở của người đồng mình, của quê hương. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ấp giọng nói tiếng cười:
       Chân phải....
       ....tiếng cười.
       Khung cảnh ấy đẹp như 1 bức tranh: hình ảnh em bé ngây thơ lẫm chẫm tập đi, bi bô tập nói trong vòng tay, trong tình yêu thương, chăm sóc, nâng niu của cha mẹ; hình ảnh cha mẹ giang rộng vòng tay, chăm chút từng bước đi, từng bước đi, từng nụ cười, tiếng nói của con. Gia đình chính là cái nôi êm ái, tổ ấm để con sống, lớn khôn và trường thành trong niềm yêu thương con cái. Đó là không khí thường thấy trong các gia đình hạnh phúc. Nhưng cách diễn đạt ở đay có nét độc đáo riêng cảu người miền núi: nói bằng hình ảnh cụ thể. Điệp ngữ "bước tới", trong tình cảm người cha, ko khỏi niềm sung sướng, tự hào.
       Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong quê hường sâu nặng nghĩa tình:
       Người đồng mình yêu lắm con ơi
       ...........tấm lòng
       Một cách nói rất riêng, rất ngộ : "người đồng mình", là người miền mình, người vùng mình, là những người cùng sống trên 1 miền đất, cùng quê hương, cùng 1 dân tộc. Đó là cách nói mộc mạc, mang túnh địa phương của dân tộc Tày nhưng giàu sức biểu cảm, Tác giả vận dụng lối diễn đạt của người dân tộc miền núi để xây dựng hình ảnh thơ. Những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc đều được diễn tả trực tiếp bằng hình ảnh. Đan lờ để bắt cá, dưói bàn tay của người Tày, những nan trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa". Vách nhà ko chỉ ken bằng gỗ mà còn đc ken bằng "câu hát". Rừng đâu chỉ cho nhìu gỗ quý, lâm sản mà còn cho hoa. Ba đông từ "đan", "cài", "ken" còn thể hiện sự đoàn kết, gắn bó cảu quê hương. Lao động đã đem đến cho con bao điều tốt đẹp, "người đồng mình" và quê hương ấp ủ, nuôi sống con trong tình thương yuê, trong tình đoàn kết buôn làng. Và con đường đâu chỉ để đi mà nó còn cho "những tấm lòng" nhân hậu, bao dung, nghĩa tình. Con đường đó là hình bóng thân thuôc của quê hương, còn in dấu những bước chân đi xuôi ngược, làm ăn sinh sống của buôn làng, nên nó mang 1 ý nghĩa thật to lớn trong quá trình khôn lớn của con. Sung sứong nhìn con khôn lớn, nha thơ suy ngẫm về tình làng bản quê nhà, về cội nguồn hạnh phúc:
       Cha mẹ ...
       ....trên đời
       Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình" và ước mơ của cha về con. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ mạnh mẽ vượt wa mọi khó khăn, gian khổ.
       Người đồng mình thương lắm con ơi
       ...........Không lo cực nhọc
       Trước hết đó là tình thương yêu, đùm bọc nhau. Cách nói mộc mạc mà chứa đựng bao ân tình rất cảm động đó được lặp đi lặp lai như một điệp khúc trong bài ca. Chính tình thưong đó là sức mạnh để "người đồng mình" vượt wa bao gian khổ cuộc đời. Những câu thơ ngắn, đối xứng nhau "cao đo nỗi buồn xa nuôi chí lớn" diễn tả thật mạnh mẽ chí khí của "người đồng mình": sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng có chí lớn, luôn yêu quý tự hào, gắn bó với quê hương. Đó là phẩm chất thứ hai. Thứ ba, về cách sống, người cha muốn giáo dục con sống phải có nghĩa tình, chung thủy với quê hương, bit chấp nhận vượt wa gian nan, thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Không chê bai, phản bội quê hưong : "không chê...không chê....không lo" dù quê hương còn nghèo, còn vất vả. "Người đòng mình sống khoáng đạt, hồn nhiên, mạnh mẽ "như sông như suối-lên thác xuống ghềnh-ko lo cực nhọc". Lời cha nói với con mà cũng là lời dạy con về bài học đạo lý làm người. Đoạn thơ rất dồi dào nhạc điệu, tạo nên bởi điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu và nhịp thơ rất linh họat , lúc vươn dài, khi rút ngắn, lời thơ giản dị, chắc nịch mà lay độg, thấm thía, có tác dụng truyền cảm manh mẽ.
       Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống của người đồng mình:
       Người đồng mình thô sơ da thịt
       .......Nghe con
       Truyền thống ấy thật đáng tự hào, tuy "thô sơ da thịt", ăn mặc giản dị, áo chàm, khăn piêu, cuộc sống mộc mạc thiếu thốn... nhưng ko hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí nghị lực và đặc biệt là khát vọng xây dựng quê hương. Họ xây dựng quê hương bằng chính sức lực và sự bền bỉ của mình: "tự đục đá kê cao quê hương". Họ sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ phong tục tốt đẹp của mình biết tự hào với truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự tin, vững bước trên đường đời, ko bao giờ được sống tầm thường, nhỏ bé, ích kỷ. Hai tiếng "nghe con" kết thúc bài thơ với tấm lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình của nhười cha đối với đứa con thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương trìu mến wá.
       Bài thơ có giọng điệu nhò nhẹ, chân tình và rất mới lạ trong phong cách, một phong cách miền núi với ngôn ngữ "thổ cẩm" rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng. Qua đó, Y Phương đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hưong và dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của 1 dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

Wednesday, March 28, 2012

The Story of the Rainbow - Câu chuyện cầu vồng


The Story of the Rainbow - Câu chuyện cầu vồng
Have you ever heard of “The story of the rainbow”? I myself  find it a very sweet and humanistic one and would like to share it. Based upon a Native American Legend...
The Story of the Rainbow
Once upon a time the colors of the world started to quarrel. 

All claimed that they were the best, the most important, the most useful, and the favorite. 

Green said: 
"Clearly I am the most important. I am the sign of life and of hope. I was chosen for grass, trees and leaves. Without me, all animals would die. Look over the countryside and you will see that I am in the majority." 

Blue interrupted: 
"You only think about the earth, but consider the sky and the sea. It is the water that is the basis of life and drawn up by the clouds from the deep sea. The sky gives space and peace and serenity. Without my peace, you would all be nothing."
Yellow chuckled: 
"You are all so serious. I bring laughter, gaiety, and warmth into the world. The sun is yellow, the moon is yellow, the stars are yellow. Every time you look at a sunflower, the whole world starts to smile. Without me there would be no fun." 

Orange started next to blow her trumpet: 
"I am the color of health and strength. I may be scarce, but I am precious for I serve the needs of human life. I carry the most important vitamins. Think of carrots, pumpkins, oranges, mangoes, and papayas. I don't hang around all the time, but when I fill the sky at sunrise or sunset, my beauty is so striking that no one gives another thought to any of you." 

Red could stand it no longer he shouted out: 
"I am the ruler of all of you. I am blood - life's blood! I am the color of danger and of bravery. I am willing to fight for a cause. I bring fire into the blood. Without me, the earth would be as empty as the moon. I am the color of passion and of love, the red rose, the poinsettia and the poppy." 

Purple rose up to his full height: 
He was very tall and spoke with great pomp: "I am the color of royalty and power. Kings, chiefs, and bishops have always chosen me for I am the sign of authority and wisdom. People do not question me! They listen and obey."

Finally Indigo spoke, much more quietly than all the others, but with just as much determination: "Think of me. I am the color of silence. You hardly notice me, but without me you all become superficial. I represent thought and reflection, twilight and deep water. You need me for balance and contrast, for prayer and inner peace."

And so the colors went on boasting, each convinced of his or her own superiority. Their quarreling became louder and louder. Suddenly there was a startling flash of bright lightening thunder rolled and boomed. Rain started to pour down relentlessly. The colors crouched down in fear, drawing close to one another for comfort.

In the midst of the clamor, Rain began to speak:
"You foolish colors, fighting amongst yourselves, each trying to dominate the rest. Don't you know that you were each made for a special purpose, unique and different? Join hands with one another and come to me."

Doing as they were told, the colors united and joined hands.

The rain continued:
"From now on, when it rains, each of you will stretch across the sky in a great bow of color as a reminder that you can all live in peace. The Rainbow is a sign of hope for tomorrow." And so, whenever a good rain washes the world, and a Rainbow appears in the sky, let us remember to appreciate one another...



 Câu chuyện cầu vồng
Ngày xửa ngày xưa, giữa các màu sắc bỗng nhiên nổ ra một cuộc tranh cãi.

Mỗi màu sắc đều tự cho mình là đẹp nhất, quan trọng nhất, có ích nhất, và được ưa thích nhất.

Xanh Lục bảo rằng:
"Rõ ràng tôi là màu sắc quan trọng nhất. Tôi là biểu tượng của cuộc sống và hi vọng. Cỏ, cây và lá đều mang trong mình màu sắc của tôi. Không có tôi, tất cả các con vật sẽ chết. Hãy thử nhìn khắp miền nông thôn xem, bạn sẽ nhận ra rằng đâu đâu cũng được phủ bởi màu sắc của tôi."

Xanh Lam ngắt lời:
"Bạn chỉ mới nghĩ đến mặt đất mà thôi, thế còn bầu trời và biển cả thì sao. Nước là nền tảng của sự sống, nước từ biển sâu có thể hóa thành mây trên bầu trời. Bầu trời mang lại khoảng không gian, sự thanh bình cùng cảnh trời quang mây tạnh. Không có sự yên ổn ấy, các bạn sẽ chẳng là gì cả."

Vàng cười khúc khích:
"Bạn quá nghiêm trọng rồi đấy. Tôi mang lại tiếng cười, sự vui vẻ và hơi ấm cho thế giới này. Mặt trời chói chang có màu Vàng, trăng Vàng, và những vì sao cũng thế. Mỗi khi ngắm nhìn một bông hoa hướng dương, các bạn sẽ thấy cả thế giới đang nở nụ cười. Không có tôi, trái đất này còn gì là vui nữa."

Liền sau đó, Da Cam bắt đầu khoe khoang:
"Tôi là sắc màu của sức khỏe và sức mạnh. Tôi có thể hiếm và ít được tìm thấy, nhưng tôi rất quý giá bởi lẽ tôi đáp ứng được nhu cầu của cuộc sống con người. Tôi mang lại những vitamin quan trọng nhất. Hãy nghĩ đến cà rốt, bí ngô, cam, xoài, và đu đủ mà xem. Tuy tôi không hiện diện suốt cả ngày, nhưng hãy ngắm nhìn cảnh bình minh và hoàng hôn đi, bạn sẽ thấy đâu đâu cũng là tôi, và vẻ đẹp ấy quá ấn tượng đến mức sẽ chẳng ai buồn nghĩ đến các bạn đâu."

Đỏ từ nãy đến giờ vẫn nghe và không thể chịu được nữa nên đã hét lên:
"Này, tôi mới là người thống trị hết thẩy các bạn đấy. Tôi là máu - máu của sự sống! Tôi là sắc màu báo hiệu nguy hiểm nhưng cũng là biểu tượng cho lòng dũng cảm. Và tôi sẵn sàng chiến đấu vì một mục đích nào đó. Tôi có thể mang lại nhiệt huyết. Không có tôi, trái đất này sẽ trống rỗng như mặt trăng mà thôi. Tôi là biểu tượng của lòng đam mê, và của tình yêu; hoa hồng đỏ, hoa trạng nguyên, và cả hoa anh túc đều mang trong mình màu sắc của tôi."

Tía đã lên đến đỉnh điểm của mình, và y bắt đầu nói với một vẻ phô trương vô cùng:
"Này, tôi là biểu trưng cho hoàng gia và quyền lực đấy nhé. Những vị vua chúa, những người đứng đầu, những giám mục luôn luôn chọn tôi làm dấu hiệu chứng tỏ uy quyền và sự thông thái của mình. Không ai điều tra, xét hỏi tôi cả! Họ nghe và phục tùng."

Cuối cùng Chàm cũng lên tiếng, dù nhẹ nhàng hơn rất nhiều so với những màu sắc khác nhưng cũng không kém phần quả quyết:
"Hãy nghĩ đến tôi đây. Tôi là sắc màu tĩnh lặng. Các bạn hầu như đã bỏ quên tôi, nhưng nếu thiếu tôi, tất cả các bạn sẽ chỉ là cái nông cạn bề ngoài mà thôi. Tôi tượng trưng cho suy nghĩ và tư duy, cho những lúc chạng vạng cũng như khi sâu lắng. Có tôi thì mới có sự cân bằng lẫn sự tương phản, tôi là hiện thân cho những lời cầu nguyện, và cho thế giới tâm hồn."
Và như vậy các màu sắc cứ thế mà khoe khoang tự mãn, bởi lẽ mỗi người đều quá tin vào cái ưu việt của chính mình. Cuộc cãi vã ngày càng to tiếng hơn. Bỗng nhiên một ánh chớp chói lòa xé ngang và làm rung chuyển cả bầu trời khiến hết thẩy phải giật mình. Mưa bắt đầu trút xuống không ngớt. Bảy màu sắc thu mình lại trong sợ hãi, họ xích lại gần nhau hơn để tìm kiếm sự che chở.

Giữa không khí ồn ào rả rích ấy, Mưa bắt đầu cất tiếng nói: "Hỡi những sắc màu dại dột, sao lại phải chống đối lẫn nhau chỉ cốt để tỏ ra hơn hẳn kẻ khác. Các bạn không biết rằng mỗi người trong các bạn được tạo ra đều vì một mục đích đặc biệt và duy nhất nhưng lại rất khác nhau sao? Nào, hãy nắm lấy tay nhau và tiến đến bên ta."

Bảy màu sắc làm theo lời Mưa, cùng kết lại, tay trong tay.

Rồi Mưa tiếp tục:
"Các bạn của tôi, kể từ nay, mỗi khi mưa xuống, mỗi người các bạn sẽ chăng ngang qua bầu trời và tạo thành một chiếc cầu vồng đầy màu sắc, đó sẽ lời nhắc nhở rằng tất cả các bạn đều có thể chung sống với nhau trong hòa bình. Cầu Vồng sẽ là dấu hiệu để đặt niềm hi vọng cho ngày mai, cho tương lai." Và như vậy, mỗi khi một cơn mưa trút xuống và làm sạch thế giới này, và khi mà một chiếc Cầu Vồng xuất hiện, thì hãy nhớ phải thật sâu sắc khi nhìn nhận và đánh giá một con người để hiểu rõ giá trị nơi họ. 


Hi vọng “Câu chuyện cầu vồng” một phần nào đó giúp các bạn enjoy hơn với bài học Vocab, và quan trọng hơn hết, các bạn có thể rút ra được rất nghiều bài học ý nghĩa.

Cầu vồng là sự hội tụ của 7 sắc màu:  Đỏ - sắc màu của nhiệt huyết và lòng dũng cảm, Cam là sức mạnh bất diệt, Vàng là ánh dương chiếu rọi, Lục là cuộc sống, là cỏ cây và hi vọng, Lam là bầu trời và biển cả bao la, Chàm là những tâm tư sâu lắng và niềm mơ ước trong tim, Tím là tượng trưng cho uy quyền và sự thông thái. Các màu sắc hòa hợp bên nhau tạo thành một cầu vồng tuyệt đẹp, tô điểm cho thế giới này.

Một tượng đài rất đẹp được kết nên từ 7 sắc màu – những món quà vô giá của tạo hóa. Câu chuyện cầu vồng nhắc nhở chúng ta luôn tôn trọng và đoàn kết lẫn nhau. Mỗi cá nhân cũng như mỗi sắc màu là một phần không thể thiếu trong 1 tập thể lớn, dẫu biết rằng trong mỗi con người đều có “cái tôi” mạnh mẽ nhưng hãy để cái tôi cá nhân hòa mình trong tập thể, hòa nhập nhưng không hòa tan, để cùng nhau chung tay xây dựng nên một tập thể vững mạnh.

Thursday, March 15, 2012

VÙNG ĐÔNG NAM BỘ (tt)
I- Tình hình phát triển kinh tế
1. Công nghiệp
- Khu vực Công nghiệp- xây dựng tăng trưởng nhanh, chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu GDP 59,3% (2002)
- Cơ cấu sản xuất cân đối, đa dạng
- Hình thành một số ngành công nghiệp quan trọng như: cơ khí, điện tử, dầu khí
- Các trung tâm công nghiệp lớn như TP.HCM, Vũng Tàu, Đồng Nai
* khó khăn:
- Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu
- Môi trường bị ô nhiễm
2.  Nông nghiệp
- Chiếm tỉ trọng nhỏ nhưng vẫn giữ vai trò quan trọng
- Là vùng trọng điểm trồng cây công nghiệp nhiệt đới ở nc ta ( cây cao su, cafe, hồ tiêu, điều...  )
- Ngoài ra còn trông cây công nghiệp hằng năm, cây ăn quả
- Chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi trồng thủy sản
3. Dịch vụ
- Chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu GDB của vùng
- Cơ cấu SX đa dạng
- Đông Nam Bộ dẫn đầu cả nc trong  hoạt động xuất khẩu: dầu thô, hàng may mặc, giày dép,... hàng nhập khẩu: máy móc, thiết bị
- TP.HCM là dấu mối giao thông quan trọng của vùng Đông Nam bộ  và cả nc, là trung tâm kinh tế lớn
II- Các trung tâm kinh tế và vúng kinh tế trọng điểm phía Nam\- TP.HCm, BIên Hòa, CŨng Tàu là các trung tâm kinh tế lớn của vùng tạo thành tam giác phát triển mạh về Công nghiệp của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
- Vùng kinh tế trọng điểm phía Namcó vai trò thúc đẩy sự phát triển cơ cấu kinh tế Đông Nam Bộ, các tỉnh phía Nam, cả nc phát triển.

bài 31: VÙNG ĐÔNG NAM BỘ

vùng Đông Nam Bộ
1. Vị trí địa lí và giới hạn lãnh thổ
- Vùng Đông Nam Bộ nằm kề vs TâyNguyên, ĐB. Sông Cửu Long, Duyên hải Nam Trung bộ, giữa các nc trog khu vực Đông Nam Á
-  Ý nghĩa: thuận lợi cho việc giao lưu, phát triển kinh tế vs các vùng trong nc, vs các nc trong khu vực và ngoài thế giới
2. ĐK tự nhiên và TNTN
- Đặc điểm: độ cao địa hình giảm từ Tây Bắc xuống Đông Nam, vùng có nhiều tài nguyên
- Thuận  lợi: có nhiếu tài nguyên phát triển kinh tế (tài nguyên đất bazan, đất xám, khí hậu cận xích đạo, biển có nhiều hải sản quí...)
- Khó khăn: mt bị ô nhiễm, trên đất liền ít khoáng sản
3. Đặc diểm dân cư, xã hội
- Đặc điểm:: + Là vùng đông dân, mật độ dân số khá cao. TP.HCM là một trong những thành phố đông dân nhất cả nc
+ Tỉ lệ số dân thành thị cao
- Thuận lợi: + có nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ lớn, lao động có tay nghề
+Vùng có nhiều di tích lịch sử, văn hóa ( bến cảng Nhà rồng, địa đạo Củ Chi, nhà tù Côn Đảo ...)